1. Bối cảnh lịch sử và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, đất nước ta chìm đắm trong đêm trường nô lệ, nhân dân chịu cảnh lầm than bởi các chính sách áp bức bóc lột hết sức hà khắc của thực dân Pháp. Sự thống trị tàn bạo đó đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra gay gắt. Hàng loạt các phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, khởi nghĩa Yên Thế...Các cuộc khởi nghĩa tuy diễn ra quyết liệt xong cuối cùng đều thất bại.
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5 tháng 6 năm 1911, tại Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn - Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước đã lên con tàu Amiral Latouche Tréville, bắt đầu chuyến hành trình kéo dài 30 năm. Trên hành trình bôn ba khắp năm châu bốn biển, Người vừa lao động vừa nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc đấu tranh tư sản, tham gia hoạt động trong Đảng xã hội Pháp. Cuối cùng, Người đã tìm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đó là con đường cách mạng vô sản. Sau đó, bằng nhiều hoạt động tích cực, Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân từ đó thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Từ cuối năm 1929 đến đầu năm 1930 đã có ba tổ chức cộng sản ra đời ở Việt Nam. Tuy nhiên, một nước không thể cùng một lúc tồn tại nhiều tổ chức cộng sản vì sẽ dẫn đến sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam. Vì vậy, từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, tại bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản đã triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đây là sự kiện đánh dấu mốc son chói lọi của cách mạng Việt Nam “...Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”[1] và mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, là khâu chuẩn bị quan trọng đầu tiên cho một bước nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, góp phần quan trọng đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới
2. Đảng Cộng sản Việt Nam – cội nguồn mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Từ mùa xuân năm 1930, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Bằng những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được nhiều thắng lợi vẻ vang, ghi lại những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền 1930 - 1945 với 3 cao trào cách mạng:
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào XôViết-Nghệ Tĩnh làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai; khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông.
Cao trào cách mạng 1936 - 1939 đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng.
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 - 1945 kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước.
Đảng lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954) giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
Đảng lãnh đạo cách mạng 1954-1975 lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đồng thời với đó là Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước.
Qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta vượt qua nhiều khó khăn và giành được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, nước ta đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Quy mô nền kinh tế nước ta đã tăng 96 lần so với năm 1986, lọt Top 40 nền kinh tế hàng đầu, quy mô thương mại Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực; thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có toàn bộ các thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các nền kinh tế nhóm G7. Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới.
Những thành tựu vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử nêu trên là những minh chứng cho sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng. Nhìn lại chặng đường đấu tranh oanh liệt cùng những thắng lợi vẻ vang mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng trong gần một thế kỷ qua đã khẳng định một chân lý thời đại: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở ra một tương lai tươi sáng cho cách mạng Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng là cội nguồn mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
3. Phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng để vững bước trong kỷ nguyên phát triển mới
Trong suốt quá trình 95 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt. Cũng trong chính quá trình đó, Đảng ta đã tích luỹ và hun đúc nên những truyền thống quý báu mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm giữ gìn và phát huy.
Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; Nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.
Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày đầu, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của Nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với Nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội, tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.
Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ.
Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại.
Kể từ mùa xuân năm 1930 đến nay, đất nước ta đã trải qua 95 mùa xuân có Đảng (3/2/1930 – 3/2/2025). Đó cũng là hành trình Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng, trưởng thành cùng đất nước. Tự hào về chặng đường lịch sử vẻ vang đã qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục tăng cường đoàn kết, thống nhất, phát huy những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam và nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng, hướng tới Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, kiên định đường lối đổi mới, quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng theo định hướng xã hội chủ nghĩa để vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.
GV Hoàng Thị Thu Hiền - Khoa Xây dựng Đảng
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.406