1. Đảng kiên định mục tiêu giải phóng dân tộc, hình thành đường lối cách mạng đúng đắn
Ngay từ Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (2/1930), Nguyễn Ái Quốc đã xác định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, tức là phải giành độc lập dân tộc trước khi tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đó không ngừng được bổ sung, phát triển qua thực tiễn đấu tranh, đặc biệt tại Hội nghị Trung ương 8 (5/1941), khi Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Sự chuyển hướng chiến lược ấy đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên tất cả, mở đường cho việc thành lập Mặt trận Việt Minh và chuẩn bị trực tiếp cho khởi nghĩa giành chính quyền.
2. Những cao trào cách mạng – các “cuộc tập dượt” vĩ đại
Thắng lợi 1945 không phải là hiện tượng bột phát, mà là kết quả của một quá trình Đảng bền bỉ lãnh đạo phong trào cách mạng:
1930–1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ Tĩnh: lần đầu tiên nhân dân lao động nắm chính quyền ở cơ sở, để lại bài học quý báu về xây dựng chính quyền cách mạng.
1936–1939: Phong trào dân chủ sôi nổi trên cả nước, giúp Đảng tích lũy kinh nghiệm về tập hợp lực lượng, xây dựng mặt trận và đấu tranh nghị trường.
1939–1945: Trong bối cảnh chiến tranh thế giới, Đảng lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc ngày càng quyết liệt, chuẩn bị trực tiếp cho khởi nghĩa vũ trang.
Chính qua các phong trào ấy, đường lối của Đảng được kiểm nghiệm, lực lượng cách mạng được rèn luyện, để rồi đến năm 1945, toàn dân tộc đã sẵn sàng vùng lên dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.
3. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi
Đảng chủ trương thành lập các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất qua từng thời kỳ, từ Hội phản đế đồng minh, Mặt trận Dân chủ Đông Dương đến Mặt trận Việt Minh (1941). Trong “Tuyên ngôn Việt Minh”, Đảng hiệu triệu: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, hễ là người Việt Nam đều phải đứng dậy đánh đuổi Nhật – Pháp, giành độc lập cho Tổ quốc”. Lời kêu gọi ấy đã trở thành sức mạnh tinh thần tập hợp hàng triệu con người, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị.
4. Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang
Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập. Người khẳng định: “Tên đội là Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”. Sự kết hợp chặt chẽ giữa giác ngộ chính trị với xây dựng lực lượng vũ trang đã tạo nên thế và lực toàn diện, sẵn sàng cho Tổng khởi nghĩa.
5. Nắm bắt thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa kịp thời
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh (15/8/1945), chính quyền bù nhìn rệu rã, Đảng đã kịp thời triệu tập Hội nghị toàn quốc (13–15/8/1945) và Đại hội Quốc dân Tân Trào (16/8/1945), quyết định Tổng khởi nghĩa. Ủy ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành quyền độc lập của nước nhà”. Đây là quyết định kịp thời, sáng suốt, biến thời cơ “ngàn năm có một” thành thắng lợi “long trời lở đất”.
6. Phương châm khởi nghĩa sáng tạo, phù hợp
Đảng đề ra phương châm “từ nông thôn tiến vào thành thị”, từng bước giành chính quyền ở cơ sở, rồi tiến tới các trung tâm lớn Hà Nội (19/8), Huế (23/8), Sài Gòn (25/8). Chỉ trong vòng nửa tháng, chính quyền về tay nhân dân trên phạm vi cả nước. Hồ Chí Minh tổng kết: “Trong vòng chưa đầy nửa tháng, nhân dân cả nước đã giành chính quyền về tay mình”.
7. Sự thật lịch sử và ghi nhận quốc tế
Sự thật hiển nhiên cho thấy, nếu không có Đảng lãnh đạo, phong trào yêu nước sẽ tản mạn, không thể đồng loạt, nhất tề vùng lên. Quan điểm cho rằng thắng lợi chỉ do Nhật đầu hàng là phiến diện, bởi “thời cơ” tự nó không tạo ra thắng lợi, mà phải có lực lượng chính trị đủ mạnh để chớp lấy.
Nhiều học giả quốc tế cũng thừa nhận vai trò của Đảng và Việt Minh. Nhà sử học Mỹ William J. Duiker khẳng định: “Không có sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và tổ chức của Việt Minh, Cách mạng Tháng Tám khó có thể giành thắng lợi nhanh chóng và toàn diện đến vậy”. Một số nhà báo nước ngoài thời đó gọi thắng lợi 1945 là “một trong những cuộc cách mạng thành công nhất trong thế kỷ XX”.
Kết luận: Cách mạng Tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho chân lý: Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây không chỉ là sự thật lịch sử, mà còn là cơ sở vững chắc để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hôm nay kiên định con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn – con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội./.
Phạm Hữu Kiên