Cách đây vừa tròn 80 năm, Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân và chế độ phong kiến, lập nên nhà nước công – nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Một trong những nguyên nhân hết sức quan trọng dẫn đến thắng lợi to lớn đó là sự lãnh đạo đúng đắn và kịp thời của Đảng. Tuy nhiên, đâu đó vẫn có những nhận định sai lệch, thiếu căn cứ cho rằng Cách mạng Tháng Tám thành công là “ăn may”, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Chúng ta cần phải có cái nhìn khách quan, toàn diện, khoa học về vấn đề trên ba bình diện: bối cảnh – nguyên nhân – vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thứ nhất, về bối cảnh lịch sử. Tháng 8-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với thất bại của phát xít Nhật. Ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh, tạo ra khoảng trống quyền lực tại Đông Dương. Lúc này ở trong nước, chính quyền tay sai Nhật hoàn toàn mất tinh thần, hệ thống cai trị rệu rã. Trong khi đó, phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo đã được chuẩn bị từ lâu và diễn ra sục sôi khắp nơi. Đây chính là thời cơ để nhân dân ta tiến lên giành chính quyền. Tuy nhiên, để có thể chớp được thời cơ, rõ ràng phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, từ lực lượng cách mạng cho đến đường lối, phương pháp tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa.
Thứ hai, về nguyên nhân thắng lợi. Nhìn tổng thể, có 4 nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công của Cách mạng Tháng Tám. Một là, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ khi ra đời (tháng 2/1930) Đảng đã lãnh đạo tiến hành các phong trào đấu tranh (Cao trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh 1930-1931; phong trào dân chủ Đông Dương 1936 – 1939; cao trào kháng Nhật cứu nước 1941 – 1945), từ đây Đảng ta rút ra những bài học quý báu để không ngừng hoàn thiện đường lối cách mạng. Đặc biệt, chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu; chuẩn bị lực lượng chính trị và vũ trang, xây dựng căn cứ địa, phát triển Mặt trận Việt Minh. Hai là, lực lượng cách mạng được tổ chức, giác ngộ và sẵn sàng hành động với hàng triệu quần chúng đã tham gia các đoàn thể cứu quốc; với các đội vũ trang tuy nhỏ nhưng cơ động, hừng hực khí thế tinh thần khởi nghĩa. Ba là, thời cơ lịch sử được nhận diện và chớp đúng lúc. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945 là văn kiện quan trọng của Đảng thể hiện tầm nhìn chiến lược, xuyên suốt của Đảng giai đoạn tiền khởi nghĩa. Ban Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời ra Quân lệnh số 1 (13-8-1945), triệu tập Quốc dân Đại hội Tân Trào, phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Sự lãnh đạo sáng suốt và quyết đoán này của Đảng đã giúp cho cách mạng Việt Nam chớp được thời cơ, nếu chậm trễ, quân đồng minh sẽ vào giải giáp Nhật và cơ hội sẽ tuột khỏi tầm tay. Bốn là: Sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Việt Minh đã tập hợp được các tầng lớp, giai cấp, tôn giáo với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, để rồi “toán dân Việt Nam đứng đều lên góp sức một ngày. Thề đem xương máu quyết lòng chiến đấu cho tương lại…Tiên lên cùng hô, mau diệt tan hết quân thù chung”…
Từ phân tích nguyên nhân thắng lợi nêu trên, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Thời cơ không tự sinh ra và cũng không tự biến thành thắng lợi. Mà để có thể biến thời cơ thành thắng lợi, Đảng ta đã phải có sự chuẩn bị, phân tích dự báo tình hình, chuẩn bị và chủ động tạo điều kiện cho thời cơ chín muồi. Nếu thắng lợi chỉ là do “ăn may”, thì hàng chục quốc gia thuộc địa khác cũng sẽ giành được độc lập ngay khi Nhật đầu hàng — nhưng thực tế, nhiều nước vẫn phải tiếp tục chiến đấu hàng chục năm sau.
Kết luận: Thành công của Cách mạng Tháng Tám là kết tinh của 15 năm đấu tranh gian khổ (1930–1945), của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và nghệ thuật chớp thời cơ thiên tài. Quan điểm cho rằng Cách mạng Tháng Tám thành công do “ăn may” là một sự xuyên tạc lịch sử, cố tình hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh./.
Th.S. Phạm Hữu Kiên